- Dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến các tỉnh thành phía nam, khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn.
Trong 9 tháng đầu năm nay, đã có trên 90.000 nghìn doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng kinh doanh.
Mặc dù Chính phủ đã đưa ra những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí và phục hi sản xuất kinh doanh, song dường như hiệu quả mang lại chưa thực sự tương xứng.
Trong 9 tháng đầu năm nay, đã có trên 90.000 nghìn doanh nghiệp giải thể và tạm ngừng kinh doanh. Như vậy, bình quân một tháng có hơn 10.000 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng hơn 24% so với năm 2020.
Chính sách tài khoá, hỗ trợ doanh nghiệp còn hạn chế
Các chuyên gia kinh tế quốc tế nhận định đại dịch Covid-19 sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến cách thức vận hành của nền kinh tế, đến quản trị quốc gia, quản trị xã hội, quản trị doanh nghiệp.
Quá trình phục hi kinh tế kéo dài, nhiều nước đưa ra các quy định pháp luật mới, các chính sách đặc biệt có thời hạn nhiều năm để hỗ trợ các doanh nghiệp khôi phục lại hoạt động.
Tại Việt Nam, nhiều chính sách hỗ trợ thiết thực từ miễn, giảm, giãn các khoản thuế, tiền thuê đất, cắt giảm thủ tục hành chính, hỗ trợ lãi suất… được Quốc hội, Chính phủ ban hành để giúp cho các doanh nghiệp, người dân vượt qua những khó khăn.
Ở phạm vi quốc tế, TS. Cấn Văn Lực đã chỉ ra các gói, giải pháp hỗ trợ tài khoán và tiền tệ trên thế giới giai đoạn 2020-2021.
Theo IMF và UNCTAD, hết quý 2-2021, các gói hỗ trợ tài khóa và tiền tệ toàn cầu đã lên tới 17.910 tỉ USD, tương đương 16% GDP toàn cầu năm 2020. Riêng Mỹ đã đưa ra các gói hỗ trợ với tổng giá trị 5.860 tỉ USD, tương đương khoảng 28% GDP.
Về cơ cấu các gói hỗ trợ toàn cầu, ông Lực cho biết, đối với gói hỗ trợ tài khoá, có 12,6% cho hoạt động y tế, 80,7% để hỗ trợ và kích thích kinh tế và 6,7% giãn hoàn thế.
Với hỗ trợ tiền tệ, 66% dành cho bảo lãnh tín dụng, 27,5% hỗ trợ lãi suất, 6,5% các biện pháp mua tài sản/nợ. Trong đó chủ yếu dùng tiền ngân sách.
Theo ông Lực, cơ cấu các gói hỗ trợ nói trên khác Việt Nam ở chỗ, các gói hỗ trợ tài khóa lớn hơn nhiều so với gói hỗ trợ tiền tệ, tập trung nhiều vào hỗ trợ tiền mặt, bảo lãnh tín dụng, cho vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất, ít tập trung vào giãn hoãn thuế và nghĩa vụ trả nợ.
Những gói hỗ trợ này được triển khai nhanh, gọn, ứng dụng mạnh CNTT và dùng các kênh chuyển tiền khác nhau.
Tại Việt Nam, theo Thông tư 14 của Ngân hàng Nhà nước, các biện pháp cơ cấu nợ và miễn giảm, lãi, phí sẽ lên tới 30.000 tỉ đng, tính đến hết tháng 6-2022. Trích lập DPRR (dự phòng rủi ro) 2021-2023 tăng thêm khoảng 170.000 tỉ đng.
Ông Lực cho rằng, hạn chế của các gói hỗ trợ tại Việt Nam là tiến độ triển khai hỗ trợ an sinh xã hội còn chậm, nhất là phần cho vay lãi suất 0% hỗ trợ trả lương mới giải ngân được khoảng 450 tỉ đng, tương đương 6% hết tháng 9-2021.
Các gói hỗ trợ tài khóa chưa đủ lớn và rộng; tỷ lệ hỗ trợ tiền mặt (nhất là đối với lao động tự do) còn thấp.
Bên cạnh đó, việc tung ra nhiều gói hỗ trợ trong khi ngân sách còn hạn hẹp, nợ xấu tiềm ẩn tăng, áp lực lạm phát tăng… có thể khiến nền kinh tế có dấu hiệu “lỡ nhịp”, “tụt hậu” trong quá trình phục hi.
Bài học cho Việt Nam
Nhìn lại những khó khăn của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại, ông Lực cho biết, khó khăn lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay là thiếu hụt dòng tiền, lao động; đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng và tiêu dùng, khó khăn do chi phí tăng, trong khi giá đầu ra khó tăng ngay.
Kinh nghiệm quốc tế trong việc hỗ trợ doanh nghiệp cho thấy việc triển khai nhanh, gọn, ứng dụng mạnh công nghệ thông tin và dùng các kênh chuyển tiền khác nhau sẽ giúp doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các chính sách.
Để giúp doanh nghiệp vượt qua những khó khăn do COVID-19, ông Lực cho rằng doanh nghiệp cần tận dụng tối đa các ngun hỗ trợ, cùng với đó là tiết giảm chi phí và "giữ chân" lao động, và tăng năng suất.
Ngoài ra, ông Lực cho rằng doanh nghiệp nên thực hiện theo mô hình 5Rs: Respond (thích ứng, linh hoạt), Recover (phục hi càng nhanh càng tốt), Restructure (tái cấu trúc), Re-invent (đổi mới, sáng tạo), Resilience: tăng sức đề kháng (khả năng chống chịu các cú sốc).
“Đây sẽ là một trong những giải pháp giúp doanh nghiệp nhanh chóng vượt qua khủng hoảng COVID-19”, ông Lực nhận định.
Liên quan tới các chính sách tài khoá, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng, kiến nghị Việt Nam cần chính sách tài khoá bằng tiền thật cho doanh nghiệp. Muốn nuôi dưỡng ngun thu ngân sách thì phải tạo ngun thu cho doanh nghiệp.
Trong đó có vấn đề về quỹ bảo lãnh Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại các tỉnh. Hiện nay, quỹ này có tỉnh có tỉnh không. Ngoài ra, Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp của Bộ KH&ĐT vốn điều lệ 2.000 tỉ đng, nhưng hoạt động như thế nào thì ít được nhắc đến.
Ông Hùng đề xuất các giải pháp để mở rộng hỗ trợ từ phía tài khóa như Chính phủ tăng "vay tiền" Ngân hàng Trung ương, phát hành trái phiếu,... qua đó có ngun lực để hỗ trợ doanh nghiệp vượt giai đoạn khó khăn.
Về các giải pháp liên quan tới chính sách hỗ trợ cho phục hi kinh tế, ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Quản lý thuế Doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính, cho rằng bên cạnh giải pháp về vĩ mô, quyền kinh doanh, chi tiêu công mà doanh nghiệp có cơ hội tham gia triển khai để tăng sức lan toả, cần phải có chính sách đng bộ, tránh tình trạng xung đột, triệt tiêu lẫn nhau. Có vậy mới bảo đảm sự thống nhất và tính khả thi để doanh nghiệp có thể thực hiện.