Với việc sửa đổi Luật Nhà ở của Việt Nam có hiệu lực vào tháng 7 năm 2015, thị trường bất động sản nhà ở tại Việt Nam mang lại tiềm năng tăng trưởng dài hạn và tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Cẩm nang này này nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài một cái nhìn tổng quát về khung pháp lý cũng như một số thông tin quan trọng về đầu tư bất động sản nhà ở ở Việt Nam.
Việt Nam nằm ở trung tâm của Đông Nam Á và có diện tích trải dài 330.967 km2. Đây là nơi có hơn 90 triệu người với gần 50% của dân số dưới 30 tuổi (1). Đất nước đã trải qua tăng trưởng kinh tế ổn định trong những năm gần đây với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình 6,15 phần trăm từ năm 2000 đến năm 2015. Sự hình thành của Cộng đng Kinh tế ASEAN và việc thông qua TPP sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam và tăng đầu tư nước ngoài vào trong nước.
Nằm ở phía Nam của Việt Nam, thành phố H Chí Minh (TP H Chí Minh), trước đây tên Sài Gòn, là một trong những thành phố lớn nhất và quan trọng nhất trong Việt Nam. Thành phố này không chỉ là một trung tâm thương mại và tài chính mà còn là trung tâm khoa học, văn hóa, giáo dục và công nghệ của Việt Nam.
Với dân số trẻ và năng động hơn 8 triệu người và tầng lớp trung lưu đang phát triển, TPHCM có tiềm năng thị trường rất lớn. Thành phố tự hào có cơ sở hạ tầng tốt nhất trong cả nước bao gm cả hệ thống giao thông và viễn thông hiện đại để tạo ra thành phố được quy hoạch tốt hiện đại có thể trở thành mong muốn nhất và trung tâm thương mại quốc tế ở Đông Nam Á.
Luật cung cấp các điều kiện pháp lý về sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tại Việt Nam. Luật mới có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2015 cho phép người nước ngoài được nhập cảnh vào Việt Nam để mua nhà ở Việt Nam.
Quyền sở hữu đất tư nhân người nước ngoài không được công nhận ở Việt Nam. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam cho phép cá nhân hoặc tổ chức công ty có quyền sở hữu quyền sử dụng đất và tài sản trên đất. Quyền đó được gọi là sử dụng đất đúng (“LUR”). Một tòa nhà, nhà hoặc căn hộ được xây dựng trên đất liền có thể được sở hữu khi một người có tài liệu pháp lý hợp nhất được gọi là “Chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà và các tài sản khác trên đất liền ”(hoặc viết tắt là“ Sổ hng ”)
Cá nhân nước ngoài được cấp Sổ hng cho tài sản nhà ở tại Việt Nam sẽ được quyền sở hữu và sử dụng các quyền tương tự người Việt Nam địa phương, ngoại trừ những hạn chế nhất định bao gm giới hạn mua và thời hạn quyền sở hữu (như được thảo luận trong Phần 2e dưới đây). Các quyền này bao gm không hạn chế:
Các tổ chức nước ngoài có thể sử dụng tài sản của họ với các quyền tương tự như đã đề cập nhưng chỉ là chỗ ở có sẵn cho nhân viên của họ. Các quyền như vậy cũng phải chịu một số hạn chế nhất định bao gm giới hạn mua và quyền sở hữu (được cung cấp bên dưới). Để làm rõ, các thực thể nước ngoài là không được sử dụng nhà để kinh doanh bao gm cho thuê lại, văn phòng cho các mục đích khác.
Trong trường hợp người nước ngoài nhận hoặc thừa kế nhà ở trong một khu vực cụ thể nơi đã đáp ứng hạn ngạch nhà ở cho người nước ngoài, họ chỉ được hưởng giá trị của (các) ngôi nhà
Ba (03) tháng trước khi hết thời hạn sở hữu, các chủ nhà người nước ngoài có thể xin gia hạn thời hạn sử dụng nhưng không quá mười lăm năm. Họ cũng có thể bán hoặc yêu cầu cho/tặng tài sản của họ. Nếu chủ nhà nước ngoài không làm như vậy trước ngày hết hạn, tài sản của họ sẽ được chuyển thành tài sản của Nhà nước.
Đơn vị đo lường: Giá bán & phí quản lý sẽ dựa trên Diện tích sử dụng thuần (Diện tích thông thủy), cũng sẽ được chỉ rõ trong Thỏa thuận mua bán (SPA). Nhìn chung, Diện tích lọt lòng là khu vực trong tòa nhà và bao gm các khu vực được chụp bởi các bức tường ngăn cách phòng, ban công / loggia đính kèm đến tòa nhà. Nó loại trừ khu vực tường, cột, ống dẫn dịch vụ và ngăn kỹ thuật bên ngoài.
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 76 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở thì:
“Tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam chỉ được mua, thuê mua nhà ở của chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở, mua nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 7 của Nghị định này và chỉ được nhận thừa kế, nhận tặng cho nhà ở của hộ gia đình, cá nhân hoặc nhận tặng cho nhà ở của tổ chức trong số lượng nhà ở theo quy định tại Khoản 3, Khoản 4 Điều này tại các dự án đầu tư xây dựng nhà ở được phép sở hữu; trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài được tặng cho, được thừa kế nhà ở tại Việt Nam nhưng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì giải quyết theo quy định tại Điều 78 của Nghị định này”.
Đối chiếu với quy định này thì nếu cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam chỉ được mua nhà ở trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại mà dự án này không thuộc khu vực bảo đảm an ninh quốc phòng hoặc chỉ được mua nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sở hữu nhà ở mà có nhu cầu bán lại nhà ở này trước khi hết hạn sở hữu nhà ở, không quy định người nước ngoài được mua căn hộ từ cá nhân là người Việt Nam.
Thủ tục thực hiện giao dịch về nhà ở được thực hiện theo quy định tại Điều 120 Luật Nhà ở 2014
Theo quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 161 Luật Nhà ở 2014: “Đối với cá nhân nước ngoài thì được sở hữu nhà ở theo thỏa thuận trong các giao dịch hợp đng mua bán, thuê mua, tặng cho nhận thừa kế nhà ở nhưng tối đa không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của Chính phủ nếu có nhu cầu; thời hạn sở hữu nhà ở phải được ghi rõ trong Giấy chứng nhận”.
Việc gia hạn thời hạn sở hữu nhà ở tại Việt Nam của cá nhân nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 77 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP. Trường hợp hết thời hạn sở hữu nhà ở mà chủ sở hữu không xin gia hạn thêm, cũng không bán, tặng cho nhà ở này cho các đối tượng thuộc diện sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì nhà ở này thuộc sở hữu Nhà nước (Điểm đ, Khoản 2, Điều 161 Luật Nhà ở 2014).
Theo quy định tại Điểm b, Khoản 4, Điều 7 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP, trường hợp cá nhân nước ngoài trong thời hạn được sở hữu nhà ở tại Việt Nam có nhu cầu bán, tặng cho nhà ở cho cá nhân nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì bên mua, bên nhận tặng cho chỉ được sở hữu trong thời hạn còn lại; khi hết thời hạn sở hữu còn lại mà chủ sở hữu có nhu cầu gia hạn thêm thì được Nhà nước xem xét gia hạn theo quy định tại Điều 77 Nghị định này.
Pháp luật về nhà ở, pháp luật về đất đai chỉ quy định cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất cho cá nhân nước ngoài nếu đối tượng này thuộc diện được sở hữu và đủ điều kiện sở hữu nhà ở tại Việt Nam thông qua việc mua, thuê mua nhà ở, không quy định việc cấp Giấy chứng nhận cho trường hợp cá nhân nước ngoài thuê căn hộ có thời hạn với chủ đầu tư.
Các quyền và nghĩa vụ giữa cá nhân nước ngoài thuê nhà ở với chủ đầu tư được thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đng thuê nhà ở. Trường hợp cá nhân nước ngoài có nhu cầu cho thuê lại nhà ở này thì phải được sự đng ý của bên cho thuê nhà ở (chủ đầu tư).
Khi muốn cho thuê nhà ở, người nước ngoài phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan quản lý nhà ở cấp huyện. Việc thanh toán tiền mua, thuê mua nhà ở phải thông qua tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam.
Luật nhà ở 2014 chỉ cho người nước ngoài mua nhà ở trong các dự án thương mại, hướng lung đầu tư của người nước ngoài vào những dự án nhà ở, không để dòng vốn đầu tư lớn làm cho các khu dân cư tự phát hỗn loạn, khó kiểm soát.
Mặt khác, số lượng căn hộ, nhà ở cũng bị khống chế, quyền sử dụng đất cũng chỉ có thời hạn theo thời hạn sở hữu nhà chứ không phải là vĩnh viễn, lâu dài như công dân Việt Nam. Ngoài ra, nhà nước chưa cấp quyền sử dụng đất cho người nước ngoài.